Diễn Đàn Người Phật Tử

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn đàn của Tăng Ni Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước Ghi rõ nguồn nguoiphattu.forumvi.com khi phát hành lại thông tin từ website này.

May 2024

MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  

Calendar Calendar


    GIÁO HỘI LA MÃ: LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC

    thanhtinh
    thanhtinh
    Giảng sư

    Tổng số bài gửi : 3
    Join date : 08/05/2022

    GIÁO HỘI LA MÃ:  LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC Empty GIÁO HỘI LA MÃ: LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC

    Bài gửi by thanhtinh Fri Jul 01, 2022 1:03 pm

    Xem nội dung đầy đủ tại: https://phongchongphandong.blogspot.com/
    đăng ngày 10 Sep, 2007
    «   ●  »
    CHƯƠNG DẪN NHẬP




    MỘT SỐ NHỮNG SỰ THẬT VỀ GIÁO HỘI LA MÃ




    [size=32]Lịch sử và kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng, Giáo Hội La Mã không phải là một tổ chức thuần túy tôn giáo mà là một thế lực chính trị với chủ trương dùng những mánh mung lừa bịp (người đời) và bạo lực để thống trị toàn cầu và nô lệ hoá nhân loại. Chính vì thế mà trong gần hai ngàn năm qua, Giáo Hội đã có hàng rừng những chủ trương, chính sách và hành động tội ác trời không dung đất không tha, trong đó có những sự kiện mà các nhà viết sử đều phải công nhận rằng Giáo Hội La Mã:[/size]
    1.- Là một quốc gia với danh xưng chính thức là the State of  Vatican City. Quốc gia này có lãnh thổ với diện tịch là 0.4 km2 hay 0.2mi2, vào năm 1995 có dân số là 900,  theo chế đô tăng lữ quân chủ toàn trị (monarchical-sacerdotal) và có chính quyền  mà hội đồng chính phủ là giáo triều Vatican (curia). 
    2.- Là một đế quốc thực dân xâm lược  mà chính quyền trung ương là giáo triều Vatican và các thuộc địa là các giáo phận tại khắp mọi nơi trên thế giới. Các thuộc địa này nằm dưới quyền cai trị  của các "prelate nullius" (phó vương) mà  thông thường được gọi là "bishop" (giám mục).
    3.- Theo đuổi chủ nghĩa bá quyền nhằm thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân lọai bằng lý thuyết bịp bợm "Đô Thị Thiên Chúa" (City of God), và hệ thống tín lý Kitô. (Sẽ được nói rõ ỏ 2 Chương 3 & 4)
    4.- Dùng danh xưng tôn giáo là Đạo Thiên Chúa La Mã  và Giáo Hội La Mã làm bức bình phong để che đậy dã tâm đã nêu lên trong sự kiện số 2 vả 3 trên đây.
    5.- Có dã tâm sử dụng những chuyện hoang đường, huyễn hoặc, phi nhân bản phản khoa học, thiếu logic do bọn lưu manh buôn thần bán thánh người Do Thái bịa đặt ra  vào thời kỳ con người  còn ở trong tình trạng bán khai của các thời ông Moses và  ông Jesus cách đây hơn hai ngàn năm về trước để lừa bịp và lường gạt người đời
    6.- Tiếp tục bịa đặt ra hàng rừng chuyện hoang đường khác như Chúa Ba Ngôi, Chúa Sống Lại rồi bay lên thiên đàng, Đức Mẹ Đồng Trinh, Nơi Luyện Ngục, bảy phép bí tích, Đức Mẹ hiện ra, v.v... để khuếch trương kỹ nghệ buôn thần bánh thánh.
    7.- Chủ trương thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ để kìm hãm tín đồ và người dân dưới quyền mãi mãi ở trong tình trạng ngu dốt giống như con người ở vào thời bán khai như thời ông Moses và thời ông Je sus cách đây hơn 2 ngàn năm trở lên để  biến con người thành một đàn cừu mà Giáo Hội gọi là "đàn con chiên".
    8.- Đặt ra hệ thống giáo luật hết sức phi nhân bản, phản khoa học, nặng tính cách  võ đóan, chuyên chế nhằm giúp cho giới giáo sĩ và giai cấp thống trị tay sai dễ dàng áp bức, bóc lột tín đồ và nhân dân dưới quyền.
    9.- Theo đuổi chủ thuyết "thần quyền chỉ đạo thế quyền" với dã tâm tiếm đọat  quyền lực chính trị, thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô (còn được gọi là chế độ giáo hoàng hay chế độ cha cố) để có thể sử dụng chính quyển làm phương tiện thi hành "chính sách bất khoan dung" cưỡng bách người dân dưới quyền phải khuất phục, phải tin vào những tín điều Kitô quái đản và phải tuân hành những giáo lý phi nhân của Giáo Hội.
    10.- Chủ trương dùng bạo lực để tiêu diệt tất cả các tôn giáo khác và cưỡng bách nhân dân dưới quyền phải theo đạo Da-tô.
    11.- Bóp nghẹt hết tất cả cac quyền tự do căn bản của con người đã được Liên Hiệp Quốc và các nước theo chế độ tự do dân chủ như ở Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Ấn Độ, v.v.., công nhận. Những quyền đó là tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do kết hôn và giải hôn, v.v...
    12.- Chủ trương hủy diệt tất cả các nền văn minh nào không phải là văn minh Do Thái  hay Da-tô.
    13.- Chủ trương hủy diệt tình yêu tổ quốc và quê hương trong lòng tín đồ Da-tô.
    14.- Không cho phép tín đồ có một thứ tình cảm thiêng liêng cao cả nào có thể sánh ngang hàng với tình yêu hay lòng tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh Vatican hay Giáo Hội La Mã. Tất cả mọi thứ tình yêu thiêng liêng giữa con người với con người như tình yêu lứa đôi trai gái, tình yêu vợ chồng, tình yêu gia đình giữa cha mẹ với con cái, giữa con cái với cha mẹ, giữa anh em với nhau, tình thày trò, tình bạn bè, tình yêu làng xóm, tình yêu đối với tổ quốc, đối với quê hương và đối với dân tộc đều phải nhường bước cho tình yêu đối với Giáo Hôi hay Tòa Thánh Vatican (được ngụy tạo là tình yêu Chúa). 
    15.- Trong thời Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085), Giáo Hội đưa ra nguyên tắc "chỉ có một mình giáo hoàng mới được đưa bàn chân ra cho các ông vua chúa hôn hít." (The Pope alone offers his foot to be kissed by princes) [1].  Nguyên tắc quái đản này làm nẩy sinh ra tục lệ  quái đản "giáo sĩ bản địa phải đến  quỳ mọp xuông hôn hít giầy dép của giáo sĩ Âu Châu" tại địa phương [2] và tục lệ quái đản "tín đồ  đến trước ghế ngồi của một vị giám mục quỳ mọp xuống để được ông ta đưa bàn tay có ngón đeo nhẫn giám mục ra để hít hà  hôn hít."
    16.- Cuối năm 1095, Giáo Hoàng Urban II (1088-1099) phát động cuộc chiến Thập Tự Lần Thứ Nhất đem quân đí đánh chiếm tàn  sát nhân dân vùng Trung Đông, khởi đầu cho gần chục cuộc chiến thập tự khác tiếp theo khiến cho cả mấy chục triệu sinh linh bị sát hại.
    17.- Năm 1215, trong thời Giáo Hoàng Innocent III (1198-1216), Giáo Hội chính thức ban hành giáo luật cưỡng bách tín đồ phải đến một nơi vắng vẻ trong nhà thờ địa phương để "xưng tội" (kể lể những việc làm sai trái (theo quan niệm của Giáo Hội) với vị linh-mục quản nhiệm)  mà thâm ý của Giáo Hội là vừa để dò xét xem trong gia đình có ai là người không tuyệt đối trung thành với Giáo Hội, vừa để cho các ông linh mục quản nhiệm tại địa phương có cơ hội "gạ gãm" nữ tín đồ hầu  "giải tỏa tình trạng bế tắc về sinh lý và tâm lý" vốn đã bị tù hãm đã từ lâu.
    18.- Năm 1232, trong thời Giáo Hoàng Gregory IX (1227-1241), Giáo Hội cho thiết lập các Tòa Án Di Giáo (Inquisitions) với nhiệm vụ điều tra, truy lùng, tóm cổ, tra tấn và xử thiêu (xử tử bằng cách  trói  nạn nhân vào một cái cọc, rồi chụm củi khô và châm lửa thiêu sống) những tín đồ bị tình nghi là "có thái độ không tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh Vatican". Các Tòa Án quái đản này hoành hành ở Âu Châu cho đến khi Cách Mạng Pháp bùng nổ vào ngày 14/7/1789. Riêng ởTây Ban Nha và ở các thuộc địa của đế quốc này, các tòa án này vẫn còn tiếp tục tác oai tác quái cho đến năm 1821. Tính ra con số nạn nhân của các Tòa Án khốn nạn này lên tới gần 100 triệu. Riêng ở Tây Ban Nha và các thuộc địa của đế quốc này cũng đã tới 68 triệu [3].
    19.- Trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455), ngày 8 tháng Giêng năm 1454, Giáo Hội ban hành sắc chỉ "Romanus Pontifex"  ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn" [4] (Sẽ được trình bày đầy đủ ở Chương 4).
    20.- Giáo Hoàng Paul IV (1555-1559) tuyên bố : "Nếu bố tôi bị phát hiện là  giáo gian (dị giáo), tôi sẽ chụm củi đốt ông ta luôn". Sự kiện này đưa đến việc phá vỡ nền tảng gia đình, phá vỡ tình bằng hữu, phá vỡ tình xóm làng và quê hương bằng những hành động cổ võ và khích lệ  tín đồ làm những chuyện vô luân  như "cha con tố cáo nhau, vợ chồng tố cáo nhau, anh em tố cáo nhau, bạn bè tố cáo nhau, hàng xóm láng giềng tố cáo nhau, v.v.. trước tòa án của Giáo Hội.[5]
    21.- Đặt ra giáo luật cưỡng bách những người thuộc các tôn giáo khác muốn lập gia đình với tín đồ của Giáo Hội thì phải từ bỏ tôn giáo cổ truyền của gia đình họ, phải học giáo lý Da-tô và  phải  rửa tội theo đạo Gia-tô rồi mới được làm lễ thành hôn ở nhà thờ.
    22.- Trong thập niên 1860, thời Giáo Hoàng Pius IX (1846-1878), Giáo Hội bịa đặt ra tín lý bịp bợm "Giáo Hoàng Không Lầm Lẫn" (Papal Infallibility) để  lừa dối và lường gạt tín đồ, đặc biệt là những tín đồ đã  bị điều kiện hóa thành những "con cừu" được quản lý bởi các ngài mang chức thánh ở trong tình trạng bất bình thường vì sinh lý và tâm lý bị tù hãm.
    23.- Dùng "sách lược nội công"  bằng những đạo quân thứ 5 gồm những tín đồ Da-tô bản địa và dùng "sách luợc ngọai kích" bằng ngoại giao cho người đi thuyết phục một hay nhiều đế quốc Âu Châu hoặc siêu cường Hoa Kỷ liên kết với Giáo Hội và xuất quân tấn chiếm các vùng mục tiêu làm thuộc địa để cùng quản lý, cùng thu vơ lợi nhuận cũng như bành trướng thế lực qua chính sách Ki-tô hóa bằng bạo lực.
    24.- Dùng chính sách chia để trị: Chía các quốc gia bị chiếm ra làm nhiều tiểu quốc theo lằn ranh địa lý thiên nhiên, theo từng nhóm sắc tộc, và dùng tín đồ Da-tô bản địa làm tay sai cai trị  các thành phần thuộc các tôn giáo khác, điển hình là ở Đông Dương trong những năm 1862-1954 và ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975.
    25.- Cấu kết với Đế Quốc Tây Ban Nha trong việc tấn chiếm và thống trị Châu Mỹ La-tinh, Phi Luật Tân trong thế kỷ 16 và nhiều nơi khác vào những thời điểm khác nhau.
    26.- Cấu kết với  Đế Quốc Bồ Đào Nha trong việc tấn chiếm và thống trị xứ Ba Tây ở Nam Mỹ và nhiều nơi khác vào nhiều thời điểm khác nhau.
    27.- Cấu kết với Đế Quốc Pháp và Bỉ trong việc tấn chiếm và thống trị Đông Dương, Algeria, Marocco, Tunisia (ở Bắc Phi) và nhiều nơi khác ở Châu Phi vào những thời điểm khác nhau.
    28.- Trong thập niên 1930 và trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, Giáo Hội cấu kết với Đức Quốc Xã và Phất Xít Ý đàn áp phong trào Cách Mạng Cộng Hòa tại Tây Ban Nha để củng cố chính quyền đạo phiệt Da-tô Francisco Franco và thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô Ante Pavelich tại Croatia. Chế độ đạo phiệt Da-tô Ante Pavelich chỉ tồn tại có  hơn 4 năm (1941-1945) mà đã tàn sát tới  trên  700 ngàn  tín đồ Do Thái Giáo và Chính Thống Giáo  ở Croatia. Lúc đó Croatia chỉ có vỏn vẹn gần 3 triệu dân.
    29.- Tích cực thuyết phục đế quốc Pháp tới ba lần trong việc xuất quân đánh chiếm và cùng thống trị Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1954 để chia phần.
    30.- Dạy dỗ tín đồ bản địa những lời dạy bất chính, bất nhân và bịp bợm như "Đừng thừa nhận quyền lực Nhà Vua và luật pháp của họ", và "Đức Giáo Hòang  ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ, họ chỉ tuân phục quyền lực Tòa Thánh Vatican[6]. Đồng thời Giáo Hội lại dạy đỗ tín đồ "phải tuyệt đối vâng lời Giáo Hội và các đấng bề trên trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội", "Vâng lời qúy hơn của lễ" và "phải tuyệt đối trung thành với Giáo Hội La Mã hay Tòa Thánh Vatican", “phúc cho ai không thấy mà tin”, “Niềm tin tôn giáo không cần phải đến sự can thiệp của lý trí hay của khoa học” (không thể dùng lý trí hay khoa học để giải thích niềm tin tôn giáo) , v.v…  Đây là những lời dạy lưu manh nhất và thâm độc nhất của Giáo Hội La Mã vì rằng chính những lời dạy này đã nhào nặn tín đồ bản địa thành những phường vong bản phản quốc, phản quê hương, phản dân tộc. Điển hình là suốt trong chiều dài lịch sử kể từ khi đạo Da-tô đuợc truyền vào Việt Nam  vào năm 1533 cho đến ngày nay, tín đồ Da-tô người Việt đã có thái độ và hành động như thế nào, dân Việt Nam ta đều đã  nhìn thấy rõ. Sự kiện này cũng được thể hiện ra trong cộng đồng giáo dân Việt Nam bằng khẩu hiệu “Nhất Chúa, nhì cha, thư ba Ngô Tổng Thống”, bằng hành động của Linh-mục Hoàng Quỳnh khi ông ta lớn tiếng hô hào tín đồ Da-tô người Việt rằng "Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa" (vào năm 1964). Sự thật này đã khiến cho học giả Da-tô Charlie Nguyễn viết bài báo có tựa đề là "Truyền Thống Phản Quốc của Công Giáo Việt Nam" đăng trên tờ Đông Dương Thời Báo sô 88 tháng 5/6 2004 nơi các trang 1, 3, 4, 5 6 & 7. (Đông Dương Thời Báo, P. O  Box  671091, Houston, Texas 77207-1091)
    31.- Cấu kết với siêu cường Hoa Kỳ trong sự dụng sức mạnh của Hoa Kỳ để duy trì tình trạng chia đôi Việt Nam thành hai miền Nam và Bắc cho tới ngày 30/4/1975..
    32.- Trong thời 1862- 1945, Liên Minh Đế Quốc Pháp - Thập Ác Vatican đã chia Việt Nam ra làm ba miền Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ giống như ba tiểu quốc với ba thể chế chính trị và hệ thống pháp luật khác nhau, và  ngay từ giữa thập niên 1860, Gíám-mục Puginer, đại diện của Tòa Thánh Vatican ở Đường Ngoài (miền Bắc), đã đưa ra Kế Hoạch Puginier, theo đó thì chính quyền liên minh giặc Pháp - Vatican phải "diệt tận gốc, tốc tận rế" Nho giáo và tất cả các nho sĩ Việt Nam [7]. Cũng may là kế họach ác ôn này bị người Pháp bác bỏ.
    33.- Trong Thời Kháng Chiến 1945- 1954, ngay khi vừa mới được chính quyền Charles de Gaulle thỏa thuận với Tòa Thánh Vatican đề cử cựu Linh-mục Thierry G. d' Argenlieu nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương vào ngày 17/8/1945 với dã tấm xúi giục và khích lệ gần hai triệu tín đồ Da-tô người Việt  hăng say nổi lên tiếp tay Liên Quân Xâm Lăng Pháp- Vatican chống lại tổ quốc và chính quyền Kháng Chiến dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh. Sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi nhận trong sách Thập Giá và Lưỡi Gươm với nguyên văn như sau:
    Đờ Gôn (De Gaulle) gặp đô đốc Thierry d’ Argenlieu, một tu sĩ Dòng  Camêlô, làm cho Cao Ủy Đông Dương, nghĩa là làm Toàn Quyền. Có lẽ ông hy vọng rằng vị linh mục này sẽ thành công trong việc quy tụ dân công giáo lại đi theo ủng hộ mình, như hồi chinh phục lần đầu, cách đó một thế kỷ.” [8]
    Ngay sau khi  tới Sàigòn, Thierry G. d' Argenlieu liền tiến hành kế họach xé nước Việt Nam  ra làm nhiều mảnh,  rồi thành lập nước Công Hòa Nam Kỳ và cho ra đời chính phủ lâm thời Nam Kỳ  do Bác-sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ Tướng. Sau đó, ông cựu linh mục Cao Ủy Đông Dương này lại cho thành lập nước Cộng Hòa Tây Kỳ ở miền Nam Trung Bộ, nước Cộng Hòa Thái  ở miền Tây Bắc Bắc Bộ và mưu đồ thành lập nước Cộng Hòa Nùng ở miền Đông Bắc Bắc Bộ. Sự kiện này được sách Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp ghi lại rõ ràng như sau:
    Mồng 1 tháng 6, chỉ một ngày sau hôm Bác (cụ Hồ) lên đường, cái gọi là “chính phủ lâm thời nước Cộng Hòa Nam Kỳ” ra mắt tại Sàigòn, đứng đầu là đôc tờ Thinh. Để tạo nên sự lẫn lộn trắng đen, cũng có một hiệp định ký giữa người thay mặt nước Pháp với người thay mặt Cộng Hòa Nam Kỳ. Trong bản hiệp định này, viên cao uỷ đã cho sao lại gần như nguyên văn điều khoản I của Hiệp Định Sơ Bộ 6/3: “Chính phủ Pháp công nhận nước Cộng Hòa Nam Kỳ là một quốc gia tự do có chính phủ của mình, nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình và là một bộ phận quan trọng trong khối Liên Hiệp Pháp.” Võ Nguyên Giáp, Những Ngày Tháng Không Thể Nào Quên  - Hữu Mai thể hiện (Hà Nội, 2001), tr. 250-251.
    "Vài ngày sau, những vụ khiêu khích mới lại nổ ra ở dọc biên giới Việt Hoa. Mồng 10 tháng Tám (1946), quân Pháp vô cớ tiến công bộ đội ta ở Tiên Yên, Đầm Hà. Ngày 13, chúng đưa bọn thổ phỉ về đóng tại Lạng Sơn. Chúng khiêu khích đồng bào ta ở Vịnh Hạ Long và vùng ven biển Hồng Gai. Cùng thời gian này, lại có tin quân Pháp từ Sơn La tiến xuống phía nam. Không lâu trước đó, d' Argenlieu đã để lộ ý muốn lập ngay tại miền Bắc một nước cộng hòa Nùng  Thái, cùng một kiểu với "nước cộng hòa Tây Kỳ" ở Tây Nguyên. Những hoạt động của địch cùng lúc xẩy ra chạy dài theo biên giới, từ vùng biển đến miền núi, từ Đống sang Tây, nói lên âm mưu này đang bắt đầu." [9]
    Sách Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 cũng viết:
    a.- Công bố Nam Kỳ quốc (27/5 – 1/6/1946: Sau khi ở Ha Nội về, D’ Argenlieu liền cho trình diễn tấn tuồng đã định trước và lại cho trình báo từ tháng 4 về Paris. (Dev. 1988 tr. 183-188)..
    Ngày 25/5/1946: Luật sư Béziat, chủ tịch Hội Đồng Tư Vấn Nam Kỳ, biên thư lên Cao Ủy Đông Dương, xin cho phép thành lập một “Cộng Hòa Nam Kỳ” ngang với “nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Bắc Kỳ, nghĩa là có “chính phủ riêng, quốc hội riêng, quân đội riêng, tài chánh riêng, nằm trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp”.
    …..
    Ngày 5/6 (1946), Tổng Trưởng Moutet gửi điện tín cho D’ Argenlieu hay rằng (Dev. 1988 tr. 189): “Hội Đồng Liên Bộ họp ngày 4/6 (1946) chấp thuân của ông về chính sách ở Nam Kỳ. Đồng ý rằng phải có một chính phủ Nam Kỳ tự trị để bảo vệ quyền lợi của dân tộc Nam Kỳ… Chỉ cần rằng chính phủ ấy không có vẻ là sáng tạo bởi chính quyền Pháp để làm bình phong cho nước Pháp…”
    b.- Thành lập “Tây Kỳ Quốc” (27/5 – 27/6/1946): Ngay trước khi bế mạc Hội Nghị Đà Lạt, D’ Argenlieu đã biên thư ngày mồng 8/5/1946 cho Lerclerc, yêu cầu tiến chiếm nốt vùng cao nguyên Trung Kỳ; Lerclerc chú thích vào lá thư “Lúc nào ta muốn cũng có thể, song hiện nay có nên gây thêm khó khăn với Viet Nam không?” (Pouvons quand nous le voulons, mais s’ agit de savoir si interêt actuellement à augmenter nos difficultés avec Vietnam – Dev 1986 tr. 183).
    Ngày 27/5/1946, tức là cùng ngày cho thành lập Nam Kỳ Quốc, D’ Argenlieu ký một sắc dụ thành lập “Phủ Uỷ Nhiệm các Dân Tộc Miền Núi ở Nam Đông Dương” (Le Commissariat des Populations Montagnardes du Sud-Indochinois,tắt là P.M.S.I.).
    Rồi ngày 21/6/1946, ông ra lệnh cho Tướng Lerclerc phải cho hai đoàn thiết giáp đi chiếm hai tỉnh Pleiku và Kontum, tiến đến quá Đèo An Khê mới ngưng. Thế là toàn thể vùng cao nguyên ở Nam Trung Bộ biến thànhmột “nước mọi thuộc Pháp” mà người Việt gọi là “Tây Kỳ Quốc”.[10]
    34.- Trong những 1948-1954, Giáo Hội La Mã  cấu kết với chính quyền Pháp tách rời hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu ra khỏi lãnh thổ Việt Nam rồi biến thành hai giáo khu tự trị với dã tâm là sẽ biến hai giáo khu này thành hai vương quốc Kitô  và đưa đạo Kitô La Mã lên làm quốc giáo.
    35.- Năm 1954, Giáo Hòang Pius XII (1939-1958) đề nghị và vận động chính quyền Hoa Kỳ sử dụng bom nguyên tử để giải vây cho cứ điểm Điện Biên Phủ của liên quân giăc Pháp - Thập Ác Vatican, nhưng  không được Tổng Thống Dwight D Eiseinhower chấp thuận.
    36.- Năm 1950, Giáo Hội cho người dấn ông Ngô Đình Diệm sang Mỹ giao cho Hồng Y Francis Spellman lo chạy chọt với những nhân vật  có thế lực trên sân khấu chính trị Hoa Kỳ để đưa ông Diệm về Vịêt Nam cầm quyền. Từ việc làm này, Giáo Hội La Mã phải  hòan toàn chịu trách nhiệm về những việc làm bất chính, đại gian, đại ác của hai chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thịệu ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, trong đó có việc tàn sát hơn 300 ngàn người ở Liên Khu V và ở nhiều nơi khác trong khắp lãnh thổ miền Nam và việc cướp đọat tài nguyên quốc gia, kinh tài bất chính, bóc lột nhân dân, ăn chặn tiền ngọai viện đem về là giầu cho Giáo Hội.
    37.- Liên tục cố gắng dùng những thủ đọan gian manh, bạo lực, lợi dụng tình yêu lứa đôi trai gái và hôn nhân với dã tâm thay thế nền đạo lý tam giáo cổ truyền của dân tộc Việt Nam bằng nếp sống đạo Kitô.
    38.- Đang triệt để sử dụng khối tín đồ Gia-tô người Việt ở cả trong nước và ở hải ngoại theo "sách lược nội công" để  làm cho tình hình Việt Nam trở thành bất ổn bằng sách lược cố hữu của Giáo Hội là "quậy cho nước đục để thả câu". Việc tín đồ Da-tô người Việt ở trong nước và ở hải ngoại đang la lối đòi tự do tôn giáo hiện nay là một trong những thí dụ điển hình.
    39.- Là thủ phạm chính trong việc chế độ đạo phiệt Da-tô của Giám-mục Augustin Misago tàn sát hơn 800,000 (800 ngàn) dân Tutsis Rwanda (Phi Châu) vào năm  1994.
    40.- Đã tàn sát hơn 250 triệu người từ thế kỷ 4 cho đến đầu thập niên 1990. Sự kiện này được sử gia Lloyd M. Graham ghi nhận trong cuốn Deceptions Myths of the Bible với nguyên văn như sau:
    "Chúng ta đã biết được những gì trong 7 trăm năm này? Ba triệu người  thiệt mạng trong vụ cố gắng chiếm lại một ngôi mồ nằm trong vùng kiểm soát của người Hồi giáo. Mười triệu người bị giết hại do bàn tay của các Tòa Án Dị Giáo Gia-tô  Mười bốn triệu người chết trong các cuộc chiến Gia-tô trong thế kỷ thứ 19. Ba mươi triệu người thiệt mạng trong các cuộc chiến giữa các quốc gia theo đạo Kitô với nhau trong hai thập niên đầu của thế kỷ thứ 20. Từ thời Constantine đến nay, chiến tranh và chính sách áp bức của các chế độ đạo phiệt Gia-tô đã gây cho hơn 200 triệu nạn nhân bị thiệt mạng. Và chúng ta phải kể thêm 23 triệu  quân nhân của 53 quốc gia và các thuộc địa đã hy sinh trong các cuộc chiến (do Giáo Hội phát động – NMQ ) và ít nhất 28 triệu nạn nhân chết  vì bom, đạn, đói và bệnh tật hay ở trong các trại tập trung.”  [What have we learned in those seven hundred years? “Three million lost their lives in a futile attempt to rescue a tomb from Mussulmans. Ten million were slain during the Inquisition. Fourteen million were slain in Christian wars of the Nineteenth Century. Thirty million lost there lives in wars between Christian nations during the first two decades of the Twentieth Century. Wars, tyranny and oppression of Christian nations since the days of Constantine have caused the death of more than 200,000,000 people”  And now we must add to this “Some 23,000,000 men in uniform from 53 nations, countries and dominions were killed or died; at least 28,000,000 died from bombs or guns, hunger or disease or in the concentration camps.) [11]
    Sách Deceptions and Myths of the Bible được phát hành vào năm 1999, sách dầy gần 500 trang. Rất có thể tác giả đã mất nhiều năm sưu tầm và tham khảo tài liệu để biên soan tập sách trên đây. Công việc biên sọan, đọc lại bản thảo, sửa chữa những sai lầm và bổ túc những thiếu sót mất rất nhiều thì giờ. Cũng vì thế mà rất có thể những biến cố xẩy ra từ đầu thập niên 1990 chưa được cho vào trong sách này. Nếu như vậy thì con số khoảng 800.000 (800 ngàn) người ở Rwanda  bị chế độ đạo phiệt Da-tô của Giám-mục Augustin Misago tàn sát vào giữa năm 1994 và con số khoảng hơn 7.000 (bẩy ngàn) người (đa số là tín đồ Hồi giáo) bi chế độ đạo phiệt Serbia ở Bosnia tàn sát vào năm 1995 không được kể vào trong sách này.
    Trên đây chỉ là một vài con số trong những khu rừng chủ trương, chính sách và hành động tội ác chống lại nhân loại của Giáo Hội La Mã.
     
    PHẢN ỨNG CỦA NHÂN DÂN THẾ GIỚI
    Vì giới hạn của mục này,  những sự kiện lich sử ở đây được thu gọn lại. Những chi tiết về những biến cố lịch sử trong mục này sẽ được trình bày đầy đủ trong phần chót của bộ sách Lịch Sử Và Tội Ác Giáo Hội La Mã.
    Cũng vì những khu rừng tội ác này mà  nhân dân Âu Châu "khiếp sợ Giáo Hội và tránh xa như tránh hủi[12],  văn hào Voltaire gọi Đạo Thiên Chúa La Mã  là "cái tôn giáo ác ôn[13], học giả  Gia-tô Henri Guillemin gọi Giáo Hội La Mã là "Cái Giáo Hội Khốn Nạn" (Malheureuse Église) [14], học giả Gia-tô Charlie Nguyễn gọi đạo Gia-tô là "đạo dối", "đạo bịp",  "đạo máu[15] , và hầu như toàn thể nhân dân thế giới đều đã và phải quyết tâm chống lại Giáo Hội đến cùng. Dưới đây là  một số trong những bằng chứng cho sự thật này:
    1.- Giáo Hội Chính Thống (Orthodox) khời đầu cũng bắt nguồn từ đạo Kitô Do Thái. Vào năm 325, khi  triệu Hội Nghi Nicaea để thông qua tín lý Chúa Ba Ngôi, thì Hòang Đế Constantine cũng chia Đế Quốc La Mã  ra làm hai:  Đế Quốc Phương Tây (về tôn giáo là Giáo Hội La Mã) gồm các nước trong vùng phía Tây và Tây Nam Âu Châu với thủ đô là La Mã, và Đế Quốc Phương Đông (về tôn giáo là Giáo Hội Đông Phương hay Chính Thống Giáo) gồm các nước Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga và nhiều nước khác trong vùng phía Đông Địa Trung Hải với thủ đô là Constantinople. Khi bàn về tín lý Chúa Ba Ngôi, phe Giáo Chủ Silvester (tức Giáo Hội La Mã) cho rằng Chúa Con Jesus có cùng một linh thể với Chúa Cha Jehovah và Ba Ngôi Chúa Cha Jehovah, Chúa Con Jesus và Ngôi Chúa Thánh Thần đều có cùng một ngôi vị ngang nhau, không ai kém ai. Trái lại, phe Giám mục Arius thì cho rằng Chúa Cha Jehovah và cho Con Jesus là hai linh thể khác nhau. (Phe này bị chụp mũ là "tà giáo", bị trục xuất ra khỏi Hội Nghị Nicaea, và sau đó bị tàn sát và bị tận diệt, sẽ được nói rõ ở Chương 4), còn Giáo Hội Đông Phương thì lại cho rằng: "Chúa Cha lớn nhất, Chúa Thánh Thần thứ nhì, và Jesus thứ ba".[16] Chỉ khác nhau có thế thôi mà hai phe Giáo Hội La Mã và Chính Thống Giáo không nhìn mặt nhau. Cuối cùng, vì không chịu nổi cái thái độ vừa trịch thượng vừa xấc xược và ngược ngạo của Tòa Thánh Vatican, Giáo Hội Đông Phương (Chính Thống Giáo) cương quyết cắt đứt quan hệ với Giáo Hội La Mã vào năm 1054. Sự kiện này được Linh-mục Bùi Đức Sinh, một cán bộ truyền giáo của Giáo Hội La Mã, viết trong bộ sách Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo với nguyên văn như sau:
    Thêm vào đó, sự lỗi lầm và thiếu không ngoan của La Mã. Tháng 3 năm 1054, Đức Hồng Y Humbert, một nhà thần học và là người thân tín của Đức Leo IX (1049-1054), dẫn đầu Sứ Thêm vào đó, sự lỗi lầm và thiếu không ngoan của La Mã. Tháng 3 năm 1054, Đức Hồng Y Humbert, một nhà thần học và là người thân tín của Đức Leo IX (1049-1054), dẫn đầu Sứ Đoàn Tòa Thánh sang Constantinopoli. Trong 4 tháng lưu lại kinh đô, sứ đòan mất nhiều thời giờ vào các cuộc tranh luận, chỉ trích luật hôn nhân và ít nhiều điểm khác của Giáo Hội Hy Lạp: "Vậy thì chỉ có các ông là thánh thiện hơn mọi người sao?" Sứ đoàn làm bộ chỉ biết có hoàng đế, dùng những danh từ chua cay nhất mỗi khi nói đến Thượng Phụ Giáo Chủ, trong khi vị này phủ nhận quyền của sứ đoàn. Giữa lúc đó, Đức Thánh Cha Leo IX qua đời ngày 19 tháng 4 (1054). Sứ đoàn tiếp tục công việc và kết thúc bằng một hành động bất ngờ : Hôm ấy là một ngày thứ bảy 16/7/1054, chính lúc một Thánh Lễ bắt đầu cử hành tại Thánh Đường Đấng Khôn Ngoan, sứ đoàn đặt trên bàn thờ một bản án đã viết sẵn phạt vạ tuyệt thông Micae Cerula, phủi bụi giầy và đi khỏi.
    Với thái độ quá thẳng thắn này, sứ đoàn trưởng sẽ gây cho giáo dân Hy Lạp một cảm kích sâu xa. Nhưng Humbert đã quên rằng không nên đối xử với vị thương phụ của giáo hội lớn như vậy, cho dầu vị này có lỗi đi nữa. Sứ đòan không ngờ sự thiếu khôn ngoan đó sẽ làm cho người Byzantine bực tức và giận bỏ luôn. Từ đấy, Cerular tha hồ khai thác sự giận dữ của giáo dân và giáo sĩ, làm tiêu tan mọi cố gắng của Hoàng Đế Constantin IX trong công cuộc hòa giải, sau cùng ông lôi cuốn được một số giáo chủ khác. Đó là hậu quả của một hành động cộc cằn của người Đức do Đức Leo IX cử đi! Người ta có thể phàn nàn Đức Thánh Cha đã không không dùng một người Ý, tức người La Mã "chính cống" thường mềm giẻo và khéo léo hơn, và như vậy chắc chắn đã không phạm một lỗi lầm như thế, để tạo cho Micae Cerular có cơ hội đứng lên làm "kẻ trả thù" cho Giáo Hội Đông Phương[17]

      Hôm nay: Tue May 07, 2024 7:04 pm

      -------- quảng cáo
      Tắt Quảng Cáo [X]
      Tắt Quảng Cáo [X]